Trang chủ » » » Hôn nhân và gia đình
Phân chia tài sản và quyền nuôi con khi ly hôn được quy định như thế nào
05-04-2020
Câu hỏi: Tôi xin chào luật sư. Năm nay tôi 50 tuổi. hiện tại tôi có 5 người con ( 3 cháu đã đi làm, con hai cháu vẫn còn đi học). chồng tôi được đứng tên ngôi nhà và đất của ông bà để lại. Gia đình tôi không xây lại nhà nhưng đã sơn sửa lại và mua sắm tài sản trong nhà, làm trang trại chăn nuôi. Bây giờ tôi muốn ly hôn thì tài sản và con cái giải quyết như thế nào. Tôi xin cảm ơn.rất mong lời tư vấn của luật sư.
Trả lời: Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi, trường hợp của bạn Công ty luật Mai Sen tư vấn cho bạn như sau:
Thứ nhất Về việc chia tài sản chung vợ chồng.
Quy định tại điều 33 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 về Tài sản chung vợ chồng như sau:
"1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung."
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 59 Luật HNGĐ 2014 về Nguyên tắc giải quyết tài sản vợ chồng khi ly hôn như sau:
"... 2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình..."
Như vậy trong trường hợp của cô tài sản là ngôi nhà mà vợ chồng cô đang ở là tài sản do bố mẹ chồng để lại cho chồng cô. Cô cần kiểm tra lại hồ sơ chuyển tên sử dụng để xác định đây là khối tài sản riêng của chồng cô hay là tài sản chung của hai vợ chồng. Và sẽ được chia thành hai trường hợp như sau:
+ Nếu trong hợp đồng cho tặng mà bố mẹ chồng cô cho tặng cả 2 vợ chồng cô thì căn nhà đó là tài sản chung của hai vợ chồng. Theo nguyên tắc tài sản chung sẽ được chia đôi.
+ Trong trường hợp hợp đồng cho tặng chỉ đứng tên chồng cô thì căn nhà là tài sản riêng của chồng cô thì cô sẽ được chia phần tài sản tính theo công sức đóng duy trì, phát triển khối tài sản.
Về vấn đề nuôi con khi ly hôn:
Quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định về Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn như sau:
"1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con."
Về nguyên tắc, việc nuôi con khi ly hôn trước hết do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết, con dưới 36 tháng tuổi sẽ giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho con, Tòa án sẽ xem xét các yêu tố sau đây để đưa ra quyết định sẽ giao con cho ai nuôi dưỡng:
- Điều kiện về vật chất bao gồm: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập… mà mỗi bên có thể dành cho con, các yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ ở của cha mẹ;
- Các yếu tố về tinh thần bao gồm: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm đã dành cho con từ trước đến nay, điều kiện cho con vui chơi giải trí, nhân cách đạo đức, trình độ học vấn… của cha mẹ.
Trong trường hợp của cô, cô có 5 người con, nếu các con cô đã đủ 18 tuổi thì việc các con cô muốn ở với ai đó là ý chí của họ và cha mẹ không phải cấp dưỡng nuôi con đối với những con đã đủ 18 tuổi. Còn đối với những cháu chưa đủ 18 tuổi thì vợ chồng cô có thể thỏa thuận về việc trực tiếp nuôi con, và việc cấp dưỡng nuôi con. Nếu vợ chồng cô không thỏa thuận được thì có thể nhờ tòa án giải quyết.